Nước Ấn Ðộ có một vị vua nổi tiếng nhất, giỏi giang nhất, đức độ nhất, và được dân chúng kính trọng ngưỡng mộ nhất, đó là vua A Dục. Sau khi Phật bát Niết Bàn chừng trăm năm, vua A Dục đã thống nhất nước Ấn Ðộ và để lại cho đất nước này một trang sử huy hoàng.
Vua A Dục là một vị Phật tử thuần thành, lúc còn tại vị, không những ông dốc lòng tin tưởng đức Phật mà lại còn cực lực lo việc truyền bá thánh pháp.
Ðể phát khởi lòng tin của dân chúng đối với Phật pháp, ông đã đổ dồn không biết bao nhiêu là tâm trí lẫn tiền tài vào việc lập tháp cúng dường đức Phật ở khắp mọi nơi.
Ngày hôm nay, nước Ấn Ðộ còn lại rất nhiều di tích của những chùa viện lớn, đó là những kiến trúc được xây lên từ thời vua A Dục vậy.
Vua mải lo tung tiền trong việc truyền bá Phật giáo nên có một cuộc sống rất phong phú và an vui. Ðiều làm cho ông buồn tiếc nhất là người em tên là Thường Tu, không những không tin Phật giáo mà còn quy theo tà giáo, đi đâu cũng hủy báng Phật pháp. Vua A Dục thường thường khuyên răn ông, nhưng Thường Tu rất cố chấp, vua không biết phải xử trí bằng cách nào.
Một hôm trời tối, Thường Tu bước vào hoàng cung, nói với vua A Dục rằng:
- Vương huynh! Hôm nay đệ khám phá ra một điều và nghĩ tới một số vấn đề, không biết có thể nói với vương huynh không?
Thường Tu nói xong, mở to hai mắt nhìn thẳng vua A Dục, đợi lệnh của vua.
- Thường Tu! Hiền đệ là người em mà ta thương mến nhất, từ trước tới giờ ta không hề có sự phân biệt với hiền đệ, đệ nên thường thường giúp ta trong việc trị nước mới phải, thì có chuyện chi mà đệ không nói được với ta chứ? Ðệ muốn nói gì thì cứ nói đi!
Thường Tu bèn tỏ ra rất nghiêm chỉnh:
- Vương huynh! Ðệ muốn nói với vương huynh một vài lời trung thật, huynh đối với mấy ông tỳ kheo Phật giáo quá đỗi cung kính, quá đỗi ủng hộ mấy ông ấy, coi chuyện Phật sự còn quan trọng hơn việc quốc gia. Ðệ thấy mấy ông sa môn tỳ kheo chẳng có gì xứng đáng cho vương huynh cung kính tôn trọng như thế, nên đệ khuyên vương huynh nên coi trọng việc nước hơn.
Những lời hủy báng của Thường Tu, vua A Dục nghe như những mũi tên đâm vào tim, trong lòng rất buồn nên vội vàng ngăn lại rằng:
- Thường Tu, đệ hãy ngừng ngay những lời nói ấy. Hủy báng Tam Bảo là có tội. Ðệ không hiểu sự cao quý của các vị tỳ kheo, họ là những người đã đoạn trừ được ái dục, xa lìa thân quyến để xuất gia cửa Phật , khoác áo cà sa, hoằng pháp lợi sinh, tìm cầu sự an lạc cho nhân dân, cho xã hội. Phật giáo có hưng thịnh thì đất nước mới ổn định được.
Nghe những lời của vua A Dục, Thường Tu không hề đồng ý còn nói rằng:
- Vương huynh! Huynh không nên tin họ như thế, cúng dường mấy ông tỳ kheo ấy thì có lợi ích gì? Ðệ thấy không những vô ích cho quốc gia, mà còn có hại đối với nhân tâm. Cả ngày họ không làm việc, ngồi đó mà hưởng phúc, không lẽ dân chúng không muốn bắt chước sống như thế hay sao? Hơn nữa, huynh nói họ là những người đã đoạn trừ ái dục, kỳ thật chuyện ấy không thể nào có được, huynh xem loại động vật còn biết thế nào là tình ái, huống chi là loài người?
Những tà ngôn tà kiến ấy làm cho vua A Dục rất buồn khổ, cuối cùng ông nghĩ ra một giải pháp để sửa đổi quan niệm lầm lạc của Thường Tu.
Một hôm vua A Dục bí mật gọi một vị đại thần vào cung, dặn phải làm như thế, như thế. Vị đại thần vâng theo lời dặn dò của vua mà thi hành.
Vào lúc trời chạng vạng tối, vua A Dục đang tắm ngoài ao, thì vị đại thần nọ cùng Thường Tu bước vào cung, thấy vua A Dục vắng mặt mà vương mão cùng long bào thì bày ngay đấy, vị đại thần bèn nói với Thường Tu rằng:
- Thân vương! Tướng mạo, khuôn mặt của ngài và đại vương hết sức giống nhau, nếu ngài khoác long bào vào thế nào cũng có người lầm tưởng ngài là vua A Dục. Thân vương, ngài làm thử mà xem!
Thường Tu biết đây là một việc phạm pháp, nhưng tâm hiếu kỳ và tâm hư danh thúc đẩy, ông bèn mặc long bào và đội vương mão lên. Ðúng ngay lúc ấy vua A Dục bước vào, thấy thế nổi giận, trách mắng Thường Tu rằng:
- Ngươi thật là to gan, dám lén lấy áo mão của ta mà mặc, có phải là ngươi muốn làm phản không? Ngươi tính chuyện soán ngôi, có phải chăng?
Chứng cớ đã rành rành, Thường Tu còn chạy chối vào đâu được? Vua A Dục bèn hạ lệnh:
- Ðem hắn ra ngoài cửa thành chém đầu lập tức!
Vị đại thần nọ bèn vội vàng tiến đến can gián:
- Ðại vương! Thường Tu là em vua, không phải là người ngoài, hơn nữa đây là lần đầu tiên xúc phạm, xin đại vương tha tội cho thân vương!
Vua A Dục nhìn xuống nét mặt ủ dột của Thường Tu, rồi đột nhiên hỏi:
- Thường Tu, ta hỏi ngươi, ngươi có thích làm vua không?
- Tuy rất thích, nhưng thần không dám vọng tưởng.
Thường Tu trả lời rất nhỏ.
- Làm vua thì vui sướng ở chỗ nào?
Bây giờ thì Thường Tu đã lấy lại can đảm, trả lời rằng:
- Vua là người được tôn trọng nhất nước, những khoái lạc vua hưởng kể ra không hết, mà những diễm phúc vua có thì nói ra cũng không cùng tận. Ðồng thời cũng không có ai trên đầu cai quản vua, như thế không phải vui sướng là gì?
- Ðược! Ngươi đã muốn làm vua thì ta nhường ngôi cho ngươi làm vua trong bẩy ngày, ngươi có quyền tận hưởng ngũ dục tùy thích. Nhưng mãn kỳ hạn ấy, ngươi sẽ bị xử tử.
Vua A Dục quy định như thế xong bèn lui về hậu cung, và bí mật ra lệnh cho một vị thị thần đến trước cửa nhà của Thường Tu, chờ ông này chiều chiều từ cung điện trở về thì nhắc nhở một câu. Người thị thần tay cầm thanh đao bén, đứng ngay tại cửa nhà, mỗi khi thấy Thường Tu trở về thì lớn tiếng hô rằng:
- Thêm một ngày vừa mới trôi qua, còn mấy ngày nữa thì xử tử hình!
Thường Tu rất sợ chết, nghe thế mỗi ngày mỗi thêm phiền não, bất an. Không những ông không khởi lên được một niệm dục lạc nào, mà còn lo âu đến nỗi hình dung tiều tụy hẳn. Bẩy ngày làm vua trôi qua trong khổ sầu, đến sáng ngày thứ tám, vua A Dục lên ngôi báu trở lại, hai bên có văn võ bá quan đứng hầu, hỏi Thường Tu rằng:
- Sao, ngươi làm vua bẩy ngày, hẳn là đã hưởng thụ rất nhiều dục lạc phải không?
Thường Tu nghe vương huynh hỏi như thế thì ủ rũ cúi đầu trả lời:
- Trong bẩy ngày vừa qua, thật sự đệ không nghe, không thấy gì hết, nói chi tới chuyện hưởng thụ. Mỗi ngày về đến cửa nhà , thấy tên thị thần tay cầm thanh đao sáng loáng, miệng lại hô lớn số ngày còn lại, đủ làm cho đệ ưu khổ rồi, còn tâm trí đâu mà nghĩ tới mấy thứ lạc thú dục lạc kia nữa? Vì thế cho nên trong bẩy ngày qua, đệ không nhìn thấy, cũng không nghe thấy gì cả.
Câu nói của Thường Tu làm cho vua A Dục hết sức vui lòng và yên tâm, ông bèn nói:
- Thường Tu, các vị tỳ kheo xuất gia thường thường tư duy đến vấn đề sinh tử lớn lao ấy, vì thế họ không thể nào có tâm trí đâu mà sinh khởi niệm ái dục hay tham chấp vật bên ngoài.
Vua A Dục còn thuyết rất nhiều pháp liên quan tới sự đau khổ của nhân sinh đối với vấn đề sinh tử, khiến Thường Tu cảm động rơi lệ, bèn phát tâm quy y Phật giáo và còn xin vương huynh cho phép mình xuống tóc xuất gia nữa.